Khái niệm về kiểm tra
– Kiểm tra của Đảng là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên trong việc chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Khái niệm về giám sát
– Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng quan sát, theo dõi, nắm bắt, xem xét, đánh giá, kết luận hoạt động nhằm kịp thời nhắc nhở để cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên được giám sát chấp hành nghiêm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước và khắc phục, sửa chữa hạn chế, khuyết điểm, vi phạm (nếu có).
Nguyên tắc kiểm tra: Các cấp ủy đảng lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác kiểm tra theo quy định của Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của Đảng. Tổ chức đảng và đảng viên phải thường xuyên tự kiểm tra, tổ chức đảng cấp trên kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Đảng viên thực hiện kiểm tra theo sự phân công của tổ chức đảng có thẩm quyền. Kiểm tra là phải xem xét tình hình thực tế, xem lại hồ sơ tài liệu, phải thẩm tra, xác minh, có kết luận đúng sai cụ thể.
Nguyên tắc giám sát: Tổ chức đảng cấp trên giám sát tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên. Tổ chức đảng và đảng viên chịu sự giám sát của Đảng và thực hiện nhiệm vụ giám sát theo sự phân công. Việc giám sát phải công khai, dân chủ, khách quan, thận trọng, đúng nguyên tắc, phương pháp công tác đảng, đúng quy định của Điều lệ Đảng. Giám sát của Đảng có giám sát trực tiếp, giám sát gián tiếp, giám sát thường xuyên và giám sát theo chuyên đề.
Theo Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng. Nhìn chung, công tác kiểm tra của Đảng và giám sát của Đảng có những điểm khác biệt nhất định, có thể phân biệt thông qua những tiêu chí sau đây:
Tiêu chí | Kiểm tra của Đảng | Giám sát của Đảng |
Những điểm giống | Về chủ thể: gồm cấp uỷ, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn thực hiện.
Về đối tượng: gồm cấp uỷ, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ, ban cán sự đảng, đảng đoàn và đảng viên. Về mục đích: nhằm đánh giá đúng ưu điểm của tổ chức đảng và đảng viên để phát huy, làm rõ thiếu sót, khuyết điểm để kịp thời uốn nắn, khắc phục và xử lý nghiêm minh khi có vi phạm. Về nội dung: gồm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, quy chế, kết luận của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Về phương pháp: kiểm tra và giám sát đều dựa trên phương pháp công tác Đảng, không áp dụng các phương pháp của cơ quan bảo vệ pháp luật. |
|
Những điểm khác |
Kiểm tra của Đảng |
Giám sát của Đảng |
Về đối tượng: | Trong kiểm tra, đảng viên vừa là chủ thể vừa là đối tượng kiểm tra (đảng viên tự kiểm tra). |
Trong giám sát, đảng viên chỉ là đối tượng giám sát và trở thành chủ thể giám sát khi được tổ chức đảng có thẩm quyền phân công (ví dụ chi bộ giao đảng viên chính thức theo dõi, giám sát đảng viên dự bị). |
Về mục đích: |
Kiểm tra là để làm rõ đúng sai, sau kiểm tra phải kết luận và xử lý hoặc kiến nghị xử lý (nếu có vi phạm đến mức phải xử lý kỷ luật), có thể có vi phạm rồi mới kiểm tra, có vụ việc vi phạm đã qua nhiều năm mới kiểm tra để làm rõ nội dung, tính chất, mức độ, tác hại và nguyên nhân của vi phạm để xử lý. | Giám sát là việc làm thường xuyên, liên tục để chủ động phòng ngừa xảy ra vi phạm từ lúc manh nha, giúp đối tượng giám sát thực hiện đúng văn bản của Đảng, phát hiện, phòng ngừa, ngăn chặn khuyết điểm, vi phạm là chính, nếu phát hiện có dấu hiệu vi phạm thì mới tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. |
Về phạm vi: | Xuất phát từ mục đích của kiểm tra, công tác kiểm tra phải có trọng tâm, trọng điểm trong từng thời gian và những lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm. |
Xuất phát từ mục đích của giám sát, công tác giám sát phải mở rộng, bao quát hết các nội dung giám sát theo quy định của Đảng. |
Về phương pháp và hình thức: |
Kiểm tra, coi trọng phần thẩm tra xác minh, có đánh giá, nhận xét kết luận và xử lý hoặc kiến nghị xử lý kỷ luật (nếu vi phạm đến mức phải xử lý). |
Giám sát, khi cần thiết tổ chức thẩm tra, xác minh, yêu cầu rút kinh nghiệm về lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện hoặc bổ sung, sửa đổi những vấn đề cần thiết, nếu phát hiện tổ chức đảng, đảng viên có dấu hiệu vi phạm thì tiến hành kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm. Về phương pháp, kiểm tra có tự kiểm tra, giám sát không có tự giám sát. |
Giữa kiểm tra và giám sát có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Muốn thực hiện tốt việc giám sát thì phải có quan sát, theo dõi, xem xét tình hình thực tế của đối tượng được giám sát. Muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì phải thường xuyên thực hiện việc giám sát. Càng làm tốt việc giám sát thì sẽ giúp cho việc kiểm tra càng trúng, càng đúng, chất lượng và hiệu quả của kiểm tra càng cao.Việc nhận thức, phân biệt và thực hiện đúng công tác kiểm tra và giám sát trong Đảng giúp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát, góp phần xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh./.
Bài và ảnh: Vũ Anh Liệu – Chi ủy viên, Chánh Văn phòng Liên minh HTX tỉnh